Thành tích đạt được

CÔNG TÁC ĐỊA VẬT LÝ HÀNG KHÔNG

Công tác địa vật lý hàng không được áp dụng ở Việt Nam từ năm 1961. Năm 1964 đã hoàn thành bay khảo sát từ hàng không tỷ lệ 1:200.000 toàn miền Bắc Việt Nam. Năm 1983-1992 hoàn thành bay liên kết với tài liệu từ hàng không phần miền Nam Việt Nam để thành lập bản đồ trường từ hàng không Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 (1995). Bản đồ này được biên tập, xuất bản ở tỷ lệ 1:1.000.000 vào năm 1998, nó có giá trị sử dụng không chỉ đối với điều tra địa chất, khoáng sản, địa chất môi trường, tai biến địa chất,… mà còn cho nhiều lĩnh vực khác như thông tin liên lạc, an ninh quốc phòng…

Từ năm 1982, bắt đầu áp dụng công nghệ bay đo tổ hợp từ-phổ gamma phục vụ đo vẽ lập bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản tỷ lệ 1:25.000 và 1:50.000. Đến nay đã hoàn thành 18 đề án bay từ phổ gamma tỷ lệ 1:25.000 và 1:50.000 trên diện tích hơn 95.000 km2. Kết quả bay đo đã thu thập số liệu để thành lập các bản đồ trường (trường từ, trường phóng xạ gamma, trường hàm lượng nguyên tố phóng xạ K, U, Th). Nhờ áp dụng công nghệ xử lý mới, các số liệu này sau đó tiếp tục được xử lý – phân tích để thành lập các bản đồ cấu trúc địa chất, bản đồ khoanh vùng dự báo triển vọng khoáng sản theo tài liệu địa vật lý.

Công nghệ bay đo địa vật lý của Liên đoàn Vật lý Địa chất trong những năm qua không ngừng đổi mới. Trước năm 1989, số liệu được thu thập theo công nghệ ghi tương tự, dẫn đường bay thực hiện bằng chụp ảnh và video, việc xử lý số liệu và hiển thị kết quả hoàn toàn bằng thủ công. Từ năm 1996 đến nay, các công đoạn nêu trên đều thực hiện bằng kỹ thuật số, luôn cập nhật với công nghệ thế giới cùng thời kỳ.

Kết quả bay đo địa vật lý, qua kiểm tra mặt đất, đã phát hiện nhiều diện tích triển vọng khoáng sản để chuyển giao tìm kiếm, thăm dò. Đã phát hiện nhiều mỏ quan trọng: sắt Thạch Khê (Hà Tĩnh), Nà Rụa, Nà Lũng, Boong Quang (Cao Bằng); urani Khe Hoa – Khe Cao (Quảng Nam); fluorit Xuân Lãnh (Phú Yên); vàng (Sơn Hoà, Xã Lát, Xuân Sơn, Trà Bu, Sơ Tang, Tây Huế…); magnesit Kong Queng, Sơ Ró (Gia Lai), sắt và đồng-niken ở Thất Khê (Cao Bằng), sắt và chì-kẽm ở Chợ Đồn (Bắc Kạn), Thượng Giáp (Tuyên Quang); đồng Phan Thanh (Cao Bằng) và nhiều mỏ sa khoáng ilmenit ven biển.

Hiện nay, bằng công nghệ xử lý – phân tích mới Liên đoàn Vật lý Địa chất đang khai thác nâng cao các số liệu bay đo địa vật lý đã có, tổng hợp với tài liệu địa chất, khoáng sản trên nhiều đới cấu trúc – sinh khoáng ở Việt Nam. Nhờ đó, đã xác định, dự báo thêm nhiều diện tích triển vọng khoáng sản nội sinh. Khi kiểm tra mặt đất đã phát hiện nhiều điểm khoáng sản mới có giá trị như vàng ở Khe Máng (Hà Tĩnh), Khe Nang (Quảng Bình), A Ngo (Tây Huế), Trà Đốc (Quảng Nam), Tiên Cẩm (Quảng Ngãi)….

Trên đất liền

Đề án “Bay đo từ phổ gamma và trọng lực vùng Lào Cai – Yên Bái tỷ lệ 1:50.000 -1:25.000” trên diện tích 7360 km2, bao trùm phần lớn đới cấu trúc Tú Lệ rất có tiềm năng sinh khoáng.

Đề án “Bay đo từ, phổ gamma và trọng lực vùng Tây Bắc”, gồm các nội dung:

+ Bay đo từ, trọng lực tỷ lệ 1:200.000 trên diện tích 14.500 km2, phủ hầu hết phần còn “trống số liệu” của bản đồ từ trường Việt Nam tỷ lện 1:500.000;

+ Bay đo từ – phổ gamma tỷ lệ 1:25.000 và bay đo trọng lực tỷ lệ 1:50.000 trên diện tích 13.600 km2, thuộc một phần đới khâu Sông Mã và toàn bộ phức nếp lồi Cẩm Thủy.

Trên biển và hải đảo

Dự án “Bay đo từ và trọng lực tỷ lệ 1:250.000 vùng biển và hải đảo Việt Nam” với mục tiêu lập bản đồ cấu trúc địa chất, xác định các diện tích triển vọng khoáng sản, bổ sung cơ sở dữ liệu trọng lực quốc gia, góp phần xác lập luận cứ khoa học phục vụ an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia, phát triển bền vững kinh tế xã hội vùng ven biển, đảo và biển Việt Nam.

CÔNG TÁC ĐO VẼ TRỌNG LỰC MẶT ĐẤT

Công tác đo vẽ trọng lực mặt đất tỷ lệ 1:500.000 được tiến hành ở Miền Bắc Việt Nam từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước.

Năm 1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Liên đoàn Vật lý Địa chất được giao nhiệm vụ đo vẽ, thành lập bản đồ trọng lực tỷ lệ 1:500.000 Miền Nam Việt Nam. Từ 2 nguồn tài liệu đó, đã thành lập bản đồ trọng lực toàn lãnh thổ Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 vào năm 1985. Năm 2011, Liên đoàn Vật lý Địa chất được giao nhiệm vụ đo bổ sung các “vùng trống”, kết hợp tài liệu trọng lực tỷ lệ 1:100.000 – 1:50.000, hoàn chỉnh bản đồ trọng lực tỷ lệ 1:500.000 và biên tập để xuất bản.

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, đo vẽ trọng lực tỷ lệ 1:50.000 và 1:100.000 được áp dụng rộng rãi, trong tổ hợp cùng với phương pháp đo vẽ từ phổ gamma hàng không, phục vụ đo vẽ lập bản đồ địa chất và tìm kiếm khoáng sản theo nhóm tờ tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000. Số liệu trọng lực đã cung cấp nhiều thông tin hữu ích về cấu trúc, đứt gãy, magma để hỗ trợ thành lập bản đồ cấu trúc địa chất, nghiên cứu cấu trúc – kiến tạo sâu, phát hiện và phân loại các khối magma ẩn làm tiền đề tìm kiếm các loại khoáng sản; phát hiện và xác định các tham số cấu trúc của các hệ thống đứt gãy, các tham số đặc trưng của các đới biến đổi liên quan với các loại khoáng sản. Đến nay, toàn lãnh thổ Việt Nam đã có 27 diện tích được đo vẽ trọng lực tỷ lệ 1:100.000 đến 1:50.000 với tổng diện tích xấp xỉ 85.000 km2.

CÔNG TÁC KHẢO SÁT ĐỊA VẬT LÝ MẶT ĐẤT

Trước năm 2000, Liên đoàn Vật lý Địa chất thực hiện công tác địa vật lý mặt đất chủ yếu là để kiểm tra các dị thường địa vật lý hàng không.

Từ năm 2002 với những thành công đạt được trong công tác kiểm tra dị thường địa vật lý hàng không, Liên đoàn Vật lý Địa chất được Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam giao nhiệm vụ trực tiếp điều tra đánh giá một số loại hình khoáng sản, đặc biệt là các loại khoáng sản “nhạy cảm” với các phương pháp địa vật lý (sắt từ, kim loại dẫn điện, kim loại phóng xạ, có chứa phóng xạ) hoặc do Liên đoàn Vật lý Địa chất phát hiện trong quá trình xử lý, phân tích tài liệu bay đo hàng không, như magnesit, wolastonit, sắt, đồng, niken, vàng, … Cụ thể là:

Năm 2002-2004: Đánh giá triển vọng magnesit vùng Kong Queng, huyện KonChro, tỉnh Gia Lai;

Năm 2006-2009: Đánh giá tiềm năng magnesit vùng Tây Kong Queng, huyện Konchro, tỉnh Gia Lai;

Năm 2003-2005: Kiểm tra, kiểm tra chi tiết dải dị thường từ vùng Cao Bằng-Thất Khê để tìm kiếm phát hiện quặng sắt, đồng, ni ken (bỏ vì các đề án khác không nêu hoặc nêu đã phát hiện…trong các đề án khác);

Năm 2006-2009: Kiểm tra, kiểm tra chi tiết dải dị thường từ hàng không vùng Thượng Giáp, tỉnh Tuyên Quang;

Năm 2013-nay: Điều tra, đánh giá tổng thể tiềm năng magnesit, đolomit, wolastonit vùng Tây Sơró, huyện KonChro, tỉnh Gia Lai;

Từ năm 2013, Liên đoàn Vật lý Địa chất được giao nhiệm vụ áp dụng tổ hợp các phương pháp địa vật lý hợp lý (đo địa chấn 2D, VSP và carota) nghiên cứu cấu trúc địa chất khống chế các tầng chứa than, phục vụ điều tra đánh giá tiềm năng tài nguyên than ở đồng bằng sông Hồng với chiều sâu nghiên cứu tới trên 2500m.

Liên đoàn đã sử dụng bộ máy địa chấn đa kênh E428-XL của hãng Sercel, máy đo địa vật lý giếng khoan GEOLOGGING của hãng Robertson, tiến hành thu-nổ hàng trăm kilomét tuyến phản xạ 2D, ghi hàng nghìn mét địa vật lý giếng khoan. Kết quả thu- nổ và xử lý-phân tích bước đầu đã xác định được hệ thống đứt gãy, các khối cấu trúc và các tập chứa than khá rõ ràng ở phần Đông Nam dải nâng tương đối Khoái Châu-Tiền Hải.

Các mặt cắt địa chất-địa chấn 2D – kết quả đo và xử lý phân tích tài liệu thực hiện trong các năm 2013-2015 thực sự là cơ sở tin cậy để các nhà địa chất thiết kế các lỗ khoan thăm dò than trên khu vực nghiên cứu.

Với uy tín và kinh nghiệm về khảo sát địa vật lý mặt đất, trong thời gian qua, nhiều công ty nước ngoài đã hợp tác với Liên đoàn Vật lý Địa chất trong khảo sát tìm kiếm khoáng sản, như: Công ty Alvil (Úc) – tìm kiếm đồng – vàng ở Đức Phú (Quảng Nam); Công ty Vàng Bồng Miêu (Liên doanh Việt – Úc) – tìm kiếm, đánh giá vàng khu mỏ Bồng Miêu; Công ty Leader Resourses LTD. (Úc) – tìm kiếm, đánh giá quặng chì-kẽm ở Nà Tùm (Bắc Kạn); Công ty TPJ (Anh) – tìm kiếm, đánh giá vàng ở Lai Châu; thăm dò muối mỏ kali tại Nong Book, tỉnh Khăm Muộn, CHDCND Lào.

CÔNG TÁC ĐỊA VẬT LÝ BIỂN

Liên đoàn Vật lý Địa chất là một trong những đơn vị đầu tiên tiến hành nghiên cứu địa vật lý biển. Công tác khảo sát địa vật lý biển được tiến hành từ năm 1991 tại vùng biển nông Hàm Tân (Bình Thuận) với sự tài trợ của CCOP, trên diện tích 1.200 km2 với 900 km tuyến khảo sát địa vật lý.

Trong 5 năm (1993-1997) đã khảo sát trên diện tích 52.000 km2 (16.000 km tuyến địa vật lý) ở tỷ lệ 1/500.000 dọc bờ biển ở độ sâu từ 0-30 m nước, từ Móng Cái đến Đà Nẵng và từ Hà Tiên đến Cà Mau. Hệ phương pháp được áp dụng gồm: đo địa chấn phản xạ nông liên tục phân giải cao, đo từ biển và đo sâu hồi âm.

Các tài liệu địa vật lý biển (địa chấn, từ trường, đo độ sâu đáy biển…) đã cung cấp những thông tin quý giá làm sáng tỏ cấu trúc trong trầm tích Đệ tứ, đặc điểm các lớp trầm tích chưa gắn kết trong Đệ tứ; sự phân bố các trầm tích Đệ tứ và magma, các hệ thống đứt gãy và các khu vực có khả năng tồn tại các bẫy sa khoáng. Những tài liệu này đã góp phần quan trọng trong công tác điều tra địa chất và tìm kiếm khoáng sản rắn vùng biển nông ven bờ Việt Nam.

Từ năm 2017, Liên đoàn Vật lý Địa chất sẽ thi công phần địa vật lý biển của một số dự án:

Dự án “Điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất, địa chất công trình, đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng lãnh thổ, phục vụ xây dựng và phát triển hạ tầng dải ven bờ biển Việt Nam”.

Dự án “Điều tra địa chất khoáng sản, tai biến địa chất, môi trường địa chất tỷ lệ 1:100.000 vùng biển 0 – 30m nước từ Hải Phòng đến Nga Sơn, Thanh Hóa”. Trong dự án này, lần đầu tiên đo địa chấn phản xạ sẽ dùng tổ hợp máy đo địa chấn biển đa kênh của Mỹ với khả năng nghiên cứu sâu từ 700 đến 1000m phần dưới đáy biển.

CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ

Từ đầu những năm 70, Liên đoàn Vật lý Địa chất đã quan tâm vấn đề xử lý tài liệu bằng các công cụ toán học thống kê, như nghiên cứu ứng dụng thuật toán Bayerst, lý thuyết thông tin, lý thuyết xác suất thống kê, … trong phân tích tài liệu từ, trọng lực. Thử nghiệm một số phương pháp mới vào điều kiện địa chất Việt Nam, như áp dụng phương pháp cảm ứng điện từ với việc lắp ráp máy DCT-1 (1976), áp dụng phương pháp chiếu sóng vô tuyến với máy chiếu sóng lỗ khoan (1976), v.v…

Liên đoàn Vật lý Địa chất còn tập trung nghiên cứu phát triển công tác xử lý, phân tích, giải đoán tài tiệu địa vật lý ở mức độ cao theo một quy trình công nghệ hợp lý, chặt chẽ kết hợp sử dụng các chương trình xử lý, phân tích mới, mạnh, để khai thác triệt để hơn thông tin địa vật lý nhằm làm sáng tỏ cấu trúc địa chất lãnh thổ và đánh giá triển vọng khoáng sản ẩn, sâu.

Liên đoàn Vật lý Địa chất cũng đã tập trung nghiên cứu sửa chữa, chế tạo máy và thiết bị địa vật lý phục vụ điều tra cơ bản và thăm dò khoáng sản. Đã chế tạo các máy: máy thu phát địa chấn biển nông phân giải cao, máy thăm dò điện, từ và phóng xạ mặt đất.

CÔNG TÁC ỨNG DỤNG ĐỊA VẬT LÝ TRONG ĐIỀU TRA ĐỊA CHẤT THỦY VĂN – ĐỊA CHẤT CÔNG TRÌNH, NGHIÊN CỨU MÔI TRƯỜNG VÀ TAI BIẾN ĐỊA CHẤT

Tìm kiếm nước ngầm ở độ sâu lớn là một thế mạnh của các phương pháp địa vật lý. Liên đoàn Vật lý Địa chất đã thực hiện có hiệu quả cao các nhiệm vụ điều tra đánh giá nguồn nước dưới đất cho nhiều tỉnh đặc biệt khó khăn vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên.

Từ năm 1992, Liên đoàn Vật lý Địa chất đã hình thành bộ phận chuyên ngành địa vật lý môi trường nhằm đáp ứng các yêu cầu điều tra nghiên cứu môi trường. Đã tiến hành điều tra địa vật lý môi trường cho phần lớn các đô thị của Việt Nam và trên một số đảo.

Liên đoàn Vật lý Địa chất đã khảo sát địa chất công trình cho nhiều lĩnh vực kinh tế như:

Khảo sát địa chất công trình thuỷ điện, trong đó có các công trình quan trọng tầm quốc gia như thủy điện Sông Đà (1972); thủy điện A Vương (2002); thủy điện Đak Mi (Quảng Nam, năm 2002); thủy điện Sekaman III – CHDCND Lào (2003) …

Khảo sát nền móng công trình giao thông và xây dựng cho rất nhiều công trình, trong đó có các công trình quan trong như nhà máy xi măng Bút Sơn (1988); Nhà máy xi măng Hải Phòng mới; nhà máy điện nguyên tử Ninh Thuận; khu công nghiệp Vũng Áng, khu bến cảng Dung Quất (Quảng Ngãi); hầm Dốc Xây (Quốc lộ 1A); hầm A Roòng (đường Hồ Chí Minh); hầm đường bộ Đèo Ngang (Hà tĩnh – Quảng Bình); công trình cáp treo Hòn Tre (Nha Trang, 2007); v.v..

Công tác khảo sát tai biến địa chất cũng được chú trọng, triển khai kịp thời khi có thông tin và được địa phương yêu cầu hoặc cấp trên giao. Kết quả đã đánh giá và dự báo các khu vực có thể bị sụt lún tiếp để các địa phương nơi có sụt lín có kế hoạch di dới dân cà cảnh báo, như: sụt lún ở dọc bở sông Hiếu – Cam Lộ (2006), sụt lún ở xã Thiện Kê, huyện Bình Xuyên – Vĩnh Phúc (2016), Sụt lún ở Chợ Đồn – Bắc Cạn (2016).

Trong chặng đường 50 năm xây dựng và phát triển của Liên đoàn, Liên đoàn Vật lý Địa chất luôn nhận được sự quan tâm của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của các cấp, các ngành; đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, cùng với sự nổ lực phấn đấu của thể tập thể Cán bộ viên chức trong toàn Liên đoàn, Liên đoàn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và được tặng nhiều phần thưởng cao quý.

Những phần thưởng tiêu biểu đạt được:

          – Huân chương Lao động hạng Ba cho Đoàn Địa vật lý Máy bay năm 1984;

          – Huân chương Lao động hạng Ba cho Liên đoàn Vật lý Địa chất và Đoàn Địa vật lý 79 năm 1985;

          – Huân chương Lao động hạng Nhì cho Liên đoàn Vật lý Địa chất năm 2016;

          – Chính phủ tặng Bằng khen cho Liên đoàn Vật lý Địa chất năm 2013;

          – Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng Cờ đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua cho Liên đoàn Vật lý Địa chất năm 2013, 2014 và 2016;

          – Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng Bằng khen cho Liên đoàn Vật lý Địa chất năm 2014, 2015;

          – Bộ Tài nguyên và Môi trường tặng Bằng khen cho Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Địa vật lý năm 2012, 2013;

          – Nhiều cá được tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Bằng khen của Chính phủ, Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, Bằng khen cấp Bộ và hàng trăm lượt Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở.

          – Đảng bộ Liên đoàn liên tục đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh; tổ chức Công đoàn Liên đoàn, Đoàn Thanh niên CSHCM luôn đạt “vững mạnh xuất sắc”.

Nguồn: Liên đoàn Vật lý Địa chất./.

LIÊN ĐOÀN VẬT LÝ ĐỊA CHẤT

Website: https://vatlydiachat.gov.vn/
Địa chỉ cơ quan: Số 1 Ngõ 95 đường Chiến Thắng, phường Văn Quán, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Điện thoại: 0243 8540448
Fax: 0243 8542223
Email: ldvldc@monre.gov.vn